a)
Đất
nước
Nói đến
Nhật Bản là chúng ta nghĩ ngay đến một cường quốc có sự phát triển đứng thứ 2 thế giới, sau Mỹ trong khi
đó dân số Nhật Bản là một nước có dân số già, nguồn tài nguyên khan hiếm vậy
tại sao Nhật Bản lại có một nền kinh tế vững mạnh như vậy?
- Về điều kiện tự nhiên, thì Nhật Bản là một
quần đảo trên 3000 đảo phía ngoài lục địa châu Á ; Diệntích la: 377.834km² Dân
số 1268 triệu ngườiThủ đô: Tokyo .Các thành phố chính: Osaka, Nagôya,
Sappôrô, KôbeTôn giáo chủ yếu đạo Phật .
- Đất nước này nằm ở phía Đông của Hàn Quốc, Nga
và Trung Quốc và trải từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển đông Trung Quốc ở
phía nam.
- Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ
rệt.với 4 mùa rõ rệt, Nhật Bản tự hào là một đảo quốc với thiên nhiên tuyệt đẹp
được đánh giá là 1 trong 10 nước đẹp nhất thế giới. Mùa xuân vào tháng 4 với
hoa Sakura, nở rộ làm ngây ngất lòng người, mùa thu với bức tranh đổi màu của
lá –Momiji, mùa đông với thiên nhiên tươi đẹp, truyền thống văn hóa lâu năm,
Nhật Bản ngày càng thu hút nhiều du học sinh đến học tập và làm việc. Nước Nhật
có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Honshu; hokkaido kyushu shikoku
okinawa. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa. Nhật Bản là quốc
gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người, bao
gồm thủ đô Tokyo và một vài tỉnh xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế giới
với khoảng 30 triệu người sinh sốngNhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên.
Các khoáng sản như quặng sắt, đồng đỏ, kẽm, chì và bạc, và các tài nguyên năng
lượng quan trọng như dầu mỏ và than điều phải nhập khẩu.
- Địa
hình và khí hậu Nhật Bản khiến người nông dân gặp rất nhiều khó khăn, và vì
quốc gia này chỉ trồng cấy được một số cây trồng như lúa gạo, nên khoảng một
nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Tuy là một quốc gia rất khan hiếm tài nguyên
thiên nhiên nhưng mà Nhật Bản luôn là một quốc gia đứng đầu thế giới về khoa
học công nghệ và đứng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm nội địa và là đất nước
đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng; xếp thứ 4 thế
giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Quốc gia này là thành
viên của tổ chức liên hợp quốc.
- Hơn nữa Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới
trong các lĩnh vực về nghiên cứu khoa học, công nghệ máy móc, nghiên cứu y học.
Gần 700.000 nhà nghiên cứu chia sẻ 130 tỉ USD của ngân sách nghiên cứu và phát
triển, đứng hàng thứ 3 trên thế giới Nhật Bản là một trong những nước có những
phát minh trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc, robot công nghiệp, quang
học, hóa chất, chất bán dẫn và kim loại. Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ngành
khoa học robot, đây là quốc gia sở hữu hơn nửa (402.200 trong tổng 742.500) số
robot cho công nghiệp sản xuất Nhật Bản đã phát minh ra QRIO, ASIMO và Aibo.
Nhật Bản cũng là nhà sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới và là quê hương của 6
trong tổng số 15 nhà sản xuất ô tô lớn nhất toàn cầu cũng như 7 trong số 20 nhà
sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới.
- Các nhà nghiên cứu Nhật luôn khẳng định được
mình qua các lần đoạt giải Nobel.
-
Về hệ thống giáo dục của Nhật Bản thì tiểu học, trung và đại học
được áp dụng ở Nhật như một trong các cải cách thời Minh Trị. Từ năm 1947, Nhật
Bản áp dụng hệ thống giáo dục bắt buộc gồm tiểu học và trung học trong chín năm
cho học sinh từ sáu đến mười lăm tuổi. Hầu hết sau đó điều tiếp tục chương
trình trung học và theo MEXT, khoảng 75,9% học sinh tốt nghiệp phổ thông tiếp
tục học lên bậc đại học, cao đẳng hay các chương trình trao đổi giáo dục khác .
Giáo dục ở Nhật có tính cạnh tranh rất cao đặc biệt ở các kì thi tuyển sinh đại
học, điển hình là các kì thi tuyển của hai trường đại học cao cấp Tokyo và
Kyoto. Chương trình đánh giá sinh viên quốc tế hợp tác OECD hiện xếp Nhật Bản ở
vị trí thứ sáu thế giới
- Nhật Bản còn có các mỹ danh là "xứ sở hoa
anh đào", vì cây hoa anh đào (桜 sakura) mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống
Nam, những cánh hoa "thoắt nở thoắt tàn" được người Nhật yêu thích
phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của dân
tộc họ; Là "đất nước hoa cúc" vì bông hoa cúc 16 cánh giống như Mặt
Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là quốc huy Nhật Bản hiện
nay; "đất nước Mặt Trời mọc" vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông,
tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu (Thái dương thần nữ).
Con người Nhật Bản
- Về con người Nhật Bản có tính hiếu kỳ và nhạy cảm với văn hóa
nước ngoài. Họ luôn tìm tòi và học hỏi làm sao tích lũy được nhiều kinh nghiệm
cho mình. Chính tinh thần hiếu kỳ óc cầu tiến của người Nhật là động lực thúc
đẩy họ trở thành một nước tiên tiến đứng thứ 2 thế giới. Ý thức tập thể cao,
trong công việc người Nhật thường gạt cái tôi ra đề cao cái chung, họ có thể
cạnh tranh với nhau, song cũng có lúc họ bắt tay với nhau đẻ đạt được mục đích
chung để đánh bại đối thủ nước ngoài. Người Nhật Bản rất tôn trọng thứ bậc và
địa vị,đây là tập tục có từ lâu đời của người Nhật, người Nhật có óc thẩm mỹ
rất cao, họ biết sắp xếp công việc và cách trang trí nhà cửa, xếp đồ đạc hay
cách bài trí bữa cơm.
Họ không chỉ biểu hiện bên ngoài mà còn cả lối sống, suy
nghĩ và cung cách làm việc của họ, người Nhật có tính tiết kiệm và làm việc
chăm chỉ, lòng trung thành của họ được khẳng định. Họ tăng cường sức mạnh của
mình bằng cách nuôi dưỡng tình cảm trung thành của các công nhân bằng cách đào
tạo có chế độ đãi ngộ rất tốt đẻ thu hút nguồn nhân lực . Xã hội Nhật Bản là
một xã hội có sự cạnh tranh quyết liệt nhưng không tạo sự cạnh tranh giữa các
cá nhân mà các cá nhân phải làm việc quên mình cho sự cạnh tranh của nhóm.
Người Nhật luôn làm theo mục tiêu đã định, tôn trọng thứ bậc trong xã hội, cần
cù và có tính trách nhiệm cao, yêu thiên nhiên và có khiếu thẩm mỹ, tinh tế ,
khiêm nhường và luôn luôn giữ chư tín. Nói tóm lại đất nước Nhật Bản là một đất
nước đầy tiềm năng để chúng ta hướng tới .
Trang phục
- Ngày nay ở Nhật Bản, nam nữ ở mọi lứa tuổi sống ở các thành phố,
thị trấn và nông thôn đều mặc quần áo kiểu phương Tây vì nó thuận tiện cho sinh
hoạt hàng ngày. Chỉ có một số ít người già làm những nghề đặc biệt mới mặc áo
kimono truyền thống và họ mặc chủ yếu vào dịp lễ hội, đôi khi người ta cũng mặc
kimono ở nhà cho thoải mái. Tuy nhiên, áo kimono cũng không mất đi vai trò quan
trọng của nó như là một phần của văn hoá Nhật Bản. Đặc biệt là phụ nữ thường gắn áo kimono với truyền thống dân
tộc và thích mặc nó vào những dịp đặc biệt.
- Theo truyền thống, áo kimono được may bằng vải dệt từ các nguyên
liệu tự nhiên như vải lanh, bông, lụa. Kimono là một chiếc áo choàng được giữ
cố định bằng một vành khăn rộng cuốn chặt vào người cùng với một số dây đai và
dây buộc, ống tay áo dài và rộng thùng thình. Kimono có hình dạng khác hẳn với
chiếc áo choàng kiểu cổ của Trung Quốc, vốn thường bị nhầm lẫn trong tranh minh
hoạ ở các sách của phương Tây. Kimono của nam giới có vành khăn đơn giản và hẹp
hơn. Áo kimono cho phụ nữ thường có các hoạ tiết hoa, lá và các biểu tượng
thiên nhiên khác, phản ánh tình yêu thiên nhiên của người Nhật Bản. Tuỳ theo
tuổi tác của người mặc mà màu sắc được chú ý rất nghiêm ngặt, những màu có gốc
sáng, đặc biệt là màu đỏ, được dùng cho trẻ em và phụ nữ trẻ chưa chồng, trái
hẳn với một số nước phương Tây ở đó màu lam nhạt được coi là thích hợp với trẻ
em.
- Ở một số nước, màu đỏ và
những màu sáng khác thường được coi là những màu thích hợp nhất đối với phụ nữ
trưởng thành, nhưng ở Nhật Bản, nhất là khi mặc kimono, màu sắc chỉ hạn chế ở
những màu dịu, không sặc sỡ. Họ cũng không mặc áo màu đen như những phụ nữ đã
lập gia đình ở một số nước Latinh. Xu hướng này thậm chí còn được thể hiện ở
trang phục kiểu phương Tây mà hầu hết phụ nữ Nhật Bản hiện hay mặc. Các thiếu
nữ thường mặc những quần áo có màu sáng, còn người già thì dùng những màu dịu
hơn tuỳ theo độ tuổi.
- Trong những năm gần đây, áo kimono được làm bằng vải tổng hợp,
vì vậy những người không có tiền mua lụa cũng có thể mua được. Áo kimono, khăn
thắt lưng và những đồ kèm theo làm bằng lụa được bán với giá cực kỳ đắt nên phụ
nữ trẻ chỉ có thể mặc vào những dịp đặc biệt như đám cưới, đám tang, lễ tốt
nghiệp hoặc lễ trưởng thành (khi tới 20 tuổi) v.v... Qua trang phục kiểu phương
Tây hàng ngày ta thấy hầu hết các xu thế mốt của châu Âu và châu Mỹ đã được du
nhập nhanh chóng vào các trang phục của thanh niên Nhật Bản. Nhật Bản hiện là
thị trường lớn của các hãng thời trang hàng đầu thế giới.
Gia đình
- Gia đình truyền thống Nhật Bản là một hình mẫu gia trưởng với
nhiều thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà và mối quan hệ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa những người cùng huyết thống rất mật thiết. Mỗi thành viên trong gia
đình, tuỳ theo tuổi tác và giới tính, có một địa vị nhất định, cũng như trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ gia đình.
- Tuy vậy, từ chiến tranh thế giới thứ hai đã có
những thay đổi lớn. Dòng người rời bỏ nông thôn ra thành phố đã làm cho mô hình
gia đình lớn tan rã, thay thế bằng gia đình hạt nhân và các ngôi nhà nhỏ được
xây dựng ngày một nhiều.
- Hầu hết các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản hiện nay có một hoặc hai
con, sống trong các căn hộ không được thoải mái lắm về diện tích. Sau khi kết
hôn, phần lớn họ ra ở riêng. Trung bình muốn có một mái ấm của riêng mình, họ
phải bỏ ra số tiền từ 3 đến 5 tỷ đồng Việt Nam. Chính vì vậy mà nhiều cặp vợ
chồng trẻ sống trong các căn hộ cho thuê, hoặc nhà của công ty. Theo thống kê
năm 2000, tỷ lệ có nhà riêng là 61,3%, và số tiền để dành trung bình là gần 10
triệu yên (khoảng 1,2 tỷ đồng Việt Nam). Tỷ lệ có 3 thế hệ trong một gia đình
là 15%. Số nhà có phòng riêng cho trẻ con: 76%. Số người thuộc tầng lớp trung
lưu: 88,5%.
- Tỷ lệ phụ nữ đi làm việc ở Nhật Bản ngày càng tăng. Tuy vậy, đa
số họ đều nghỉ việc sau khi kết hôn hoặc sinh con. Họ thường đảm nhiệm các công
việc của gia đình, không cần phải thuê người giúp việc. Các bà vợ thường nắm
hầu bao gia đình và quyết định khoản tiền tiêu vặt hàng tháng của chồng. Vậy
nhưng cả vợ lẫn chồng thường có tài khoản bí mật để chi tiêu vào việc riêng của
mình.
- Những người đi làm việc ở công ty thường đi làm về rất muộn hoặc
đi nhậu với bạn bè, đồng nghiệp vào buổi tối. Vì vậy, cảnh người chồng không
cùng ăn tối với gia đình là điều rất bình thường. Những ông bố Nhật Bản có rất
ít thời gian cho con cái và gia đình. Do phải đi làm xa, họ thường rời nhà khi
con chưa thức dậy, và trở về khi chúng đã đi ngủ. Nhân viên các công ty còn
thường có những chuyến công tác dài ngày, hoặc thuyên chuyển công việc trong và
ngoài Nhật Bản. Do việc học hành của con cái, hay trông nom bố mẹ già mà không
ít người phải chấp nhận sống độc thân xa gia đình trong thời gian dài.
- Vì lý do này hay lý do khác, ngày càng nhiều thanh niên Nhật
chọn cách sống một mình, và sự lựa chọn đó đang dần hình thành tương lai của xã
hội Nhật Bản. Hiện có tới 25% nam và 16% nữ thanh niên xứ Phù Tang ở độ tuổi 30
quyết định sống độc thân và không sinh con. Niềm đam mê của một bộ phận người
trẻ tuổi thành đạt Nhật Bản giờ đây là thức ăn ngon, rượu và công việc. Xu
hướng này ngày càng gia tăng trong một đất nước mà hôn nhân và gia đình vốn là
giá trị truyền thống lâu đời.
Tiếng Nhật
- Là ngôn ngữ duy nhất của một dân tộc sinh sống trên khắp quần
đảo, tiếng Nhật là một ví dụ hiếm có của mối tương quan dân tộc-lãnh thổ-ngôn
ngữ rõ nét và đơn nhất. Mặc dù có những khác nhau nhỏ giữa các tiếng địa phương
nhưng xét trên toàn cục, về mặt ngôn ngữ học, có sự thống nhất ở những điểm chủ
yếu. Tuy người Nhật thường cho rằng ngôn ngữ của họ khó đối với người nước
ngoài, nhưng một hệ thống ngữ âm tương đối đơn giản và các quy tắc văn phạm khá
linh hoạt làm cho tiếng Nhật trở thành dễ học hơn so với một số ngôn ngữ khác,
ít nhất là cho mục đích hội thoại, dù chữ viết tượng hình và các dạng chữ viết
khác gây khó khăn cho việc đọc và viết.
- Về nguồn gốc ngữ văn của ngôn ngữ, các học giả
có những nhìn nhận rất khác nhau. Một số học giả cho rằng tiếng Nhật thuộc họ
Ural-Altaic ở phương Bắc cùng với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và Triều Tiên, trong khi đó
một số học giả lại khẳng định rằng nó là một thành viên của họ Tây Tạng-Miến
Điện hoặc Mã lai-Polynexia ở phương Nam và những người khác lại khẳng định rằng
nó có xuất xứ từ sự pha trộn của cả hai.
- Từ vựng tiếng Nhật đã được làm giàu bằng cách vay mượn từ các
ngôn ngữ khác: của Trung Quốc thời xưa, của Bồ Đào Nha và Hà Lan trong những
thế kỷ gần đây, và của các ngôn ngữ phương Tây từ thời Minh Trị khi nước Nhật
tiếp xúc nhiều với thế giới phương Tây. Việc Nhật hoá đã cho ra đời nhiều từ
mới từ những từ vay mượn và xu hướng này đang tăng mạnh trong những năm gần
đây.
- Tiếng Nhật được coi là có sự mô tả tỉ mỉ hơn các ngôn ngữ khác
đối với các phạm trù như lúa gạo, thực vật, cá và thời tiết. Điều này dường như
bắt nguồn từ ý thức đã ăn sâu và bền chặt về các nguồn thức ăn cần thiết để duy
trì cuộc sống trong điều kiện khí hậu gió mùa. Ngược lại, những từ liên quan
đến các thiên thể, đặc biệt là các vì sao lại rất ít. Người Nhật mặc dù là dân
sống ở đảo nhưng lại không đi lại được trên biển bằng việc quan sát thiên văn.
- Một nét nổi bật của tiếng Nhật là các hình thức biểu đạt theo
cấp độ khác nhau tuỳ theo tình huống. Tiếng Nhật có cách nói thông thường,
khiêm nhường hoặc kính trọng, tuỳ thuộc vào mức độ kính trọng cần thiết đối với
người đối thoại, vào các dịp và các yếu tố khác. Động từ, danh từ và các từ
khác thay đổi hoàn toàn hoặc một phần theo cấp độ được dùng. Kính ngữ vẫn còn
đóng vai trò quan trọng trong xã giao, cũng như sự khác nhau giữa từ ngữ và
cách nói của nam và nữ.
- Hệ thống chữ viết của Trung Quốc dường như được đưa đầu tiên vào
Nhật Bản qua Triều Tiên, có thể vào khoảng thế kỷ III, sau hệ thống chữ cái
Latinh được đưa vào Anh hai hoặc ba thế kỷ. Người Nhật đã chọn loại chữ viết
tượng hình này để biểu đạt ngôn ngữ của mình. Điều này có thể thực hiện được vì
chữ tượng hình, như tên gọi của nó, biểu hiện ý nghĩa hơn là âm thanh. Do âm
của các từ tiếng Nhật không giống như âm của các từ tiếng Trung Quốc có cùng nghĩa
nên cần phải xác lập phương pháp thể hiện âm tiếng Nhật. Việc này được thực
hiện bằng cách tạo nên những mẫu chữ cái đơn giản trên cơ sở sao chép hoặc sửa
đổi một số chữ tượng hình và gán cho mỗi chữ cái một âm cố định. Bằng cách này,
hai bảng chữ cái ghi âm riêng biệt đã ra đời và hiện nay vẫn đang được sử dụng
song song. Vì vậy, tiếng Nhật được viết với sự phối hợp hai kiểu ký tự khác
nhau - trước tiên là chữ kanji hay là Hán tự, là những chữ tượng hình biểu đạt
nghĩa, và tuỳ theo các chữ kanji ghép cùng hay yếu tố khác mà có thể có những
cách phát âm khác nhau. Thứ hai là chữ kana hay các ký hiệu ngữ âm được dùng để
hướng dẫn việc phát âm đúng những chữ kanji hiếm hoặc lạ, hoặc để chỉ những
biến đổi về văn phạm v.v...
- Bảng chữ cái nét mềm hiragana phục vụ hai mục đích đầu tiên này,
còn bảng chữ cái nét cứng katakana được dùng để phiên âm các từ ngoại lai. Mặc
dù hệ thống chữ tượng hình có thể truyền đạt một ý nghĩa đầy đủ chỉ bằng một ký
tự, nhưng điều bất tiện là cần phải có một ký tự riêng để biểu thị mỗi ý nghĩa.
Vì vậy ở Nhật Bản trong thời kỳ trước chiến tranh, số ký tự được dùng phổ biến
cho các mục đích hàng ngày là khoảng 4000 ký tự. Từ thời kỳ chiến tranh, để
phục vụ cho giáo dục học đường và các mục đích khác, số ký tự được chính thức
dạy trong chương trình giáo dục bắt buộc và dùng trong báo chí v.v... được giới
hạn ở 1850 ký tự. Nhiều sách xuất bản ở nước ngoài nhấn mạnh đến khó khăn của
học sinh Nhật phải học một số lượng lớn các ký tự này. Tuy nhiên, trên thực tế
khi đã nắm vững những nguyên tắc cơ bản hình thành các ký tự thì việc học trở
nên dễ dàng hơn là người ta tưởng.
Ẩm thực
- Đồ ăn thường ngày của người Nhật Bản chủ yếu là cơm, cá, rau.
Thịt ít có trong thành phần bữa ăn. Điều này đôi khi được các sách nước ngoài
gán cho là do ảnh hưởng của đạo Phật. Mặc dù những điều dạy của đạo Phật cũng
có ít nhiều tác động đến vấn đề này trong một thời gian dài, nhưng nguyên nhân
quan trọng hơn cả là do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp nên người ta phải tập trung
đất cho việc sản xuất ngũ cốc cần thiết, khiến đất dành cho chăn nuôi gia súc
rất ít ỏi.
- Chất đạm và chất khoáng cần thiết được lấy chủ
yếu từ cá và rong biển. Từ những nguyên liệu cơ bản này, người Nhật Bản đã sáng
tạo ra các món ăn dân tộc bằng óc thẩm mỹ, sự khéo tay và khẩu vị tinh tế. Mùi
vị các món ăn Nhật Bản đơn giản hơn so với hầu hết các món ăn của phương Tây.
Đồ ăn của Nhật Bản chú trọng đến đặc sản theo từng mùa và sự lựa chọn các bát
đĩa đựng thức ăn một cách nghệ thuật.
- Sự tiếp xúc ngày một tăng với các nước khác
trên thế giới kể từ thời Minh Trị đã làm thay đổi bữa ăn của người Nhật Bản,
đặc biệt là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi nền kinh tế thịnh vượng và
mức sống đã được nâng lên. Việc tiêu thụ các sản phẩm sữa, thịt cũng như bánh
mì và các sản phẩm làm từ bột mì đã tăng mạnh trong khi đó tiêu thụ gạo và các
thức ăn truyền thống giảm dần. Đã có sự Âu hoá rộng rãi trong khẩu phần ăn
thường ngày như có thể thấy trong các sơ đồ về lượng thực phẩm được tiêu thụ.
- Do có sự cải thiện hệ thống phân phối hàng hoá
nên sự khác biệt về ẩm thực giữa người dân thành thị và nông thôn đã không còn
nữa. Ở các thành phố, có nhiều nhà hàng chuyên nấu các món ăn nước ngoài, trong
đó có một số nhà hàng bán với giá phải chăng. Xu hướng này, ở một mức độ nhất
định, cũng đang phát triển tới các tỉnh. Nhiều món ăn thông thường được dùng
hiện nay là những món ăn đã được Nhật hoá từ các món của các nước khác, thí dụ
như món sukiyaki, một món ăn gồm thịt, rau và các nguyên liệu khác được trần
qua nước có pha rượu ngọt, xì dầu và gia vị; món tempura gồm cá, hải sản và rau
được chiên giòn; món tonkatsu được làm bằng thịt lợn tẩm bột; và món cơm cari.
- Hầu hết người Nhật dùng đũa để ăn. Bữa sáng
thường đơn giản, bữa trưa cũng khá nhẹ nhàng và bữa ăn chính là bữa tối, khi cả
gia đình có mặt đầy đủ. Người Nhật đang có xu hướng chuộng đồ ăn chế biến sẵn,
tiện lợi khi nấu tại nhà hoặc tìm kiếm hương vị lạ từ các món ăn nước ngoài khi
ăn tiệm. Khẩu vị của thế hệ trẻ cũng có rất nhiều thay đổi. Thanh niên thích ăn
thịt hơn cá, và thích các món ăn Âu hơn các món ăn Nhật Bản truyền thống.
- Trước đây, tiếng Nhật với sự kết hợp giữa hai
loại ký tự được viết theo cách viết chính thức từ trên xuống dưới, từ phải sang
trái. Ngày nay, một số lớn các tài liệu cả chính thức lẫn không chính thức, đặc
biệt là các tài liệu không chính thức được viết theo chiều ngang từ trái sang
phải, tuy rằng báo chí và các tác phẩm văn học vẫn sử dụng kiểu viết dọc truyền
thống.